xin vào chùa ở một thời gian
Chùa Một Cột là ngôi chùa có kiến trúc nghệ thuật độc đáo ở Việt Nam, đây còn là điểm đến tâm linh - là biểu tượng văn hóa ngàn năm của Hà Nội mà chúng ta đời đời cần gìn giữ. Thông qua bài chia sẻ này, cùng Golden Gift Việt Nam tìm hiểu về nguồn gốc, lịch sử và ý nghĩa của Chùa Một Cột nhé!
Để tui cho một cái review công tâm từ nhân viên cũ nhé. - Rank lương: Rank lương của DSV công tâm mà nói là không cao không thấp. Kỹ năng giỏi, đem lại nhiều giá trị cho project thì cao, không thì trung bình thấp. Có review lương 2 lần mỗi năm, có cống hiến và performance tốt thì sẽ được tăng. Có trường hợp không
2.Tải CV xin việc - Tạo CV online, mẫu file Word, đẹp, đơn giản -taimien. Mau CV Xin Viec, CV xin việc tốt nhất, Tải Ngay mẫu CV xin việc làm tiếng Việt, Anh, File Word hoàn chỉnh nhất, ấn tượng, gây tình c- Thủ thuật CV xin việc ….
Hôm 11-2, trong cuộc gặp gỡ các hồng y tại Vatican, Đức Thánh cha đã thông báo ngài sẽ từ nhiệm lúc 20g00 ngày 28-2. Đức Giáo hoàng sẽ lui về điện Castel Gandolfo để nghỉ ngơi ít ngày, sau đó ngài về lại Vatican ở trong một tu viện nhỏ và dành trọn thời gian cho việc cầu nguyện và chiêm niệm. Trong
Ông Lê Thanh Quang, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa qua đời ở tuổi 62 sau thời gian chống chọi với bệnh hiểm nghèo. Ông Lê Thanh Quang hồi còn giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Khánh Hòa. Ảnh: K.H. Chiều 20/10, lãnh đạo Tỉnh ủy Khánh Hòa cho biết, ông Lê Thanh Quang qua đời vào chiều
Chùa Một Cột - Kiến trúc nghệ thuật độc nhất châu Á (Ảnh: ST) Chùa Một Cột được khởi công xây dựng vào năm Kỷ Sửu 1049, dưới thời vua Lý Thái Tông. Theo truyền thuyết dân gian, trong một giấc chiêm bao vua Lý Thái Tông đã mơ thấy Phật bà Quan Âm đang tọa trên đài
lassquanari1977. Theo phong tục truyền thống của người Việt Nam, vào mỗi dịp lễ quan trọng như Tết Nguyên Đán, mọi người thường đi đến lễ chùa để cầu khấn hồng ân các vị thần linh trên trời phù hộ cho gia đình và bản thân. Tuy nhiên, chùa là một nơi linh thiêng nên có những quy định căn bản mà mọi người cần phải tuân thủ theo. Trong bài viết ngày hôm nay, chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách khấn khi đi lễ chùa chuẩn và phù hợp nhất nhé. Có thể bạn quan tâm Lễ Cúng Đất Gồm Những Gì? Nên Thực Hiện Vào Thời Gian Nào? Những điều cần lưu ý khi đi lễ chùa Phong tục đi chùa đầu năm vốn là một nét đẹp truyền thống của người dân ta, xuất phát từ lòng thành kính dâng lên Phật và các vị thần linh ở trên trời. Vì thế, mỗi dịp Tết đến xuân về, việc đi lễ chùa đã trở thành một hoạt động không thể thiếu của người Việt Nam. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết hay hiểu hết về phong tục đi lễ chùa đầu năm, đi chùa như thế nào cho đúng ? Nên ăn mặc như thế nào cho phù hợp ?... Đó là lý do các bạn nên chú ý theo dõi những điều cần lưu ý khi đi lễ chùa mà chúng tôi đề cập ở dưới đây. Chắc chắn những thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho bạn đó. Trang phục khi đi lễ chùa Trang phục khi đi lễ chùa là điều đầu tiên mà các bạn cần phải chú ý đến. Chùa chiền là nơi mang nhiều yếu tố tâm linh. Do đó, ăn mặc đúng cách là việc hết sức quan trọng. Hãy chọn những bộ quần áo sao cho phù hợp với không gian tâm linh của chùa. Tuyệt đối không được mặc những đồ “ xuyên thấu “ hay quá hở hang khi đi vào chùa nhé. Không chỉ vậy, người đi lễ cũng không nên mặc quần lửng, mặc váy hay chọn những bộ trang phục quá bó sát khi đi vào chùa. Điều này là bất kính với thần linh và đặc biệt là gây phản cảm cho người nhìn. Ảnh 1 Cần chú ý đến trang phục khi đi lễ chùa để không gây phản cảm tới người nhìn và không gây bất kính với thần linh Nguồn Internet Cầu nguyện Khi đi chùa nên cầu gì và không nên cầu gì ? Đây có lẽ là câu hỏi mà nhiều người thắc mắc nhất. Từ thời xưa tới nay, người đi lễ chùa thường cầu nguyện bình an, hạnh phúc gia đình, cầu may, cầu duyên,... Nhưng mọi người lại không biết một điều rằng chùa là nơi linh thiêng nên sẽ tách biệt với thế tục nhân gian. Cửa Phật chính là nơi giúp con người ta sám hối, cầu xin cơ hội sửa chữa và làm việc thiện chứ không quan tâm đến của cải vật chất. Chính vì vậy, khi đi lễ chùa, điều tốt nhất mọi người nên làm chính là cầu Phật cho quốc thái dân an, gia đạo bình an khỏe mạnh, con cái thông minh học giỏi,... Bên cạnh đó, cũng có một điều mà người đi lễ chùa không nên cầu nguyện, đó là cầu tiền bạc, của cải, vật chất. Bởi như những gì chúng tôi đã đề cập ở trên, cửa Phật là nơi giúp tâm con người thanh tịnh, không ham muốn những vật chất ở trên thế gian. Vì vậy, cầu xin tiền bạc là điều không thể đâu nhé. Hướng dẫn cách khấn khi đi lễ chùa chuẩn nhất Bên cạnh việc sửa soạn hay sắm sửa lễ vật đi chùa, những người đi lễ cần phải nắm rõ các quy định căn bản mà nhà chùa đưa ra. Trong đó có việc khấn và thứ tự hành lễ tại chùa. Nếu các bạn vẫn chưa nắm rõ về điều này, hãy theo dõi các thông tin chúng tôi đưa ra dưới đây nhé. Cách khấn khi đi lễ chùa Khi đến dâng hương tại các chùa, người lễ cần sắm các lễ chay như hương, hoa quả, quả chín, xôi chè,... Tuyệt đối không được sắm sửa lễ mặn như cỗ tam sinh. Việc sắm sửa các lễ mặn chỉ được cho phép khi ở các khu vực thờ tự các vị Thánh, Mẫu. Đặc biệt, không được dâng đặt lễ mặn ở khu vực Phật điện. Ảnh 2 Cách khấn khi đi lễ chùa Nguồn Internet Khi đến chùa, các bạn nên hành lễ theo thứ tự sau Đặt lễ vật Thắp hương và làm lễ tại bàn thờ Đức Ông trước. Sau khi đặt lễ vật tại bàn thờ Đức Ông, người đi lễ sẽ đặt lễ vật lên hương án của chính điện rồi thắp đèn nhang. Khi thắp đèn nhang xong, tiếp tục đặt lễ tại chính điện rồi đi thắp hương ở tất cả các bàn thờ khác nhau của nhà Bái Đường. Sau đó đi làm lễ ở nhà thờ Tổ rồi đến cuối buổi lễ hãy đến nhà trai giới để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ vì. Bài khấn khi đi lễ chùa Dưới đây là bài khấn khi đi lễ chùa để cầu may, cầu bình an cho gia đình và bản thân. Các bạn hãy tham khảo và áp dụng vào mỗi dịp đi chùa lễ đầu năm nhé. Ảnh 3 Văn khấn Đức Ông - Đức Chúa Ông khi đi lễ chùa Nguồn Internet Ảnh 4 Văn khấn Đức Thánh Hiền vào các dịp lễ Tết tại chùa Nguồn Internet Ảnh 5 Văn khấn cầu tài lộc, cầu bình an ở ban Tam Bảo Nguồn Internet Ảnh 6 Khi đọc văn khấn không nên đứng thẳng về phía bàn thờ mà người đi lễ nên đứng chếch sang một bên Nguồn Internet Có thể bạn quan tâm Nghi thức bài cúng thôi nôi đầy đủ cho các bé trong dịp đầy năm Hy vọng qua bài viết trên đây, các bạn đã biết cách khấn khi đi lễ chùa như thế nào. Mong rằng các bạn đã có thêm thật nhiều thông tin bổ ích về những điều cần lưu ý khi đi chùa. Cảm ơn các bạn đã chú ý theo dõi! Tham khảo thêm thông tin khác tại chuyên mục Nhà 360
Hướng dẫn cách xưng hô khi vào chùaCách xưng hô khi đi chùaKhi đi vào chùa bạn nên chú ý đến cách xưng hô để giữ được sự tôn nghiêm chốn thanh tịnh. Trong bài viết này VnDoc sẽ mách bạn cách xưng hô khi vào chùa đúng cách để các bạn cùng tham thận khi mang "lộc chùa" về nhàBài khấn khi đi chùaTrong đạo Phật đều có những quy định phân chia cấp bậc để thuận lợi và phù hợp trong việc truyền giáo pháp. Nếu bạn là một người quan tâm đến Phật giáo và thường lui tới cửa chùa, việc hiểu các danh xưng này sẽ giúp dễ dàng để có cách xưng hô và giao tiếp đúng mực, tránh những cách xưng hô không phù hợp, gây tâm lý e ngại, lúng túng cho người giao tiếp, thậm chí là xúc phạm không đáng có cho những người tham gia giao tiếp. Về vấn đề cách xưng hô có thể chia ra làm hai trường hợp xưng hô giữa những người xuất gia và giữa người xuất gia với phật tử tại hai loại khái niệm tuổi được nhắc đến Tuổi đời và tuổi đời là tuổi tính từ khi sinh ra còn tuổi đạo là tuổi tính từ khi bắt đầu xuất gia tu Quy định danh xưng cho người xuất giaNgười dưới 20 tuổi xuất gia hoặc được gia đình giửi gắm vào cửa chùa thường được gọi là chú tiểu hay Điệu. Khi thọ được 10 giới, sẽ được gọi là Sa di / chú đối với nam hoặc Sa di ni / ni cô đối với nữ.Khi đến dưới 14 tuổi, người này sẽ được giao nhiệm vụ đuổi quạ quấy rầy khu vực tu hành của các vị sư lớn tuổi, nên sẽ được gọi là "khu ô sa di" sa di đuổi quạ.Đến ít nhất là năm 20 tuổi, vị này sẽ được thọ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo nam hay 348 giới tỳ kheo ni nữ và được gọi là Thầy nam hay Sư cô nữ.Ngoài ra hiến chương của giáo hội Phật giáo cũng có quy định danh xưngNăm 20 tuổi đời, vị xuất gia thọ giới tỳ kheo được gọi là Đại 45 tuổi đời, vị tỳ kheo được 25 tuổi đạo, được gọi là Thượng 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa với bên nữ, ni bộNăm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư 45 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 25 tuổi đạo, được gọi là Ni 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà ngày nay gọi là Ni trưởng.Những bậc Hòa Thượng đứng đầu điều hành các cơ sở giáo hội, các Đại tùng lâm, học viện Phật giáo, Tu viện và thường có tuổi trên 80 sẽ được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Cách xưng hô giữa người đã xuất gia và với cư sĩ tại gia- Giữa các vị xuất giaThường xưng con hoặc tự xưng pháp danh, pháp hiệu và gọi vị kia là Thầy hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ người đó đảm vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Ở nhiều nơi dùng cách xưng hô Việt hóa hơn là Sư anh, Sư chị, Sư ra còn có các danh xưng khác như đạo hữu bạn cùng theo đạo, pháp hữu bạn cùng tu theo giáo pháp.- Cách xưng hô giữa Phật tử tại gia và chư tăng niKhi tiếp xúc với chư tăng ni, Phật tử tại gia kể cả thân quyến của vị tu hành đó thường đơn giản gọi bằng Thầy hay Cô và xưng là những vị cư sĩ tại gia cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai sĩ Phật tử tại gia khi quy y Tam bảo thọ ngũ giới, đều có một vị Thầy truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Cách xưng hô giữa người xuất gia và gia đìnhKhi tiếp xúc với Phật tử tại gia, đó có thể chính là người thân trong gia đình, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi hoặc dùng pháp danh, pháp hiệu hay bần tăng, bần ni. Cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy/Cô và gọi người tiếp xúc là đạo hữu hay quý đạo hữu. Một Phật tử xuất gia tăng ni ít tuổi gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng "con" là điều không nên, để tránh sự tổn đức. Ngoài ra trong một số trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời không mang tính cách thiết giảng, vị tăng ni có thể gọi phật tử tại gia hoặc người thân của mình một cách trân trọng tùy theo tuổi tác giống như cách xưng hô xã giao ngoài tư liệu của thầy Thích Chân Tuệ, Cơ sở Phật học Tịnh Quang Canada
Ngôi chùa Trăm Gian là điểm đến du xuân và trẩy hội đầu năm của rất nhiều du khách gần xa, cũng là cổ tự tiêu biểu cho dấu ấn kiến trúc văn hóa tâm linh của đồng bằng Bắc Bộ. Tìm hiểu lịch sử, kiến trúc và những kinh nghiệm hành hương tới chùa Trăm Gian có tại bài viết dưới đây. Chùa Trăm Gian – một trong những ngôi chùa cổ nhất miền Bắc Việt Nam Chùa Trăm Gian còn có tên là chùa Tiên Lữ, tên chữ là Quảng Nghiêm tự. Chùa nằm trên ngọn núi Sở cao 50m thuộc địa phận thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Sở dĩ chùa có tên là Trăm Gian vì quần thể kiến trúc chùa có đến 104 gian nhà theo cách tính 4 góc cột hợp thành 1 gian. Xem thêmKhông gian kiến trúc ngày nay của chùa Vạn Niên – cổ tự thiêng đất Thăng Long Với lịch sử gần 900 năm tuổi, chùa đã trải qua khá nhiều đợt trùng tu tôn tạo. Lần gần đây nhất là vào năm 2014, các hạng mục tại chùa gồm nhà Tổ, gác Khánh, bậc cấp sân trước tiền đường và nhà Thiêu hương, Thượng điện đã được tu bổ, xây dựng lại. Chùa Trăm Gian đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam chứng nhận di tích lịch sử quốc gia. Năm 1185, chùa Trăm Gian được khởi công xây dựng dưới thời vua Lý. Lịch sử hình thành chùa gắn liền với truyền thuyết về vị cao tăng tên là Nguyễn Lữ, người làng Bối Khê được người đời tôn là đức Thánh Bối. Truyền thuyết về chùa được lưu truyền rằng Vào thời nhà Trần, có một người phụ nữ người làng Bối Khê thuộc địa phận Thanh Oai, Hà Nội hiện nay nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh. Ít lâu sau bà có mang rồi sinh ra một người con trai. Đến năm lên 9 tuổi, cậu bé đã vào tu ở chùa Đại Bi trong làng. Khi 15 tuổi, trong một lần tới thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ , Hà Nội ngày nay, cậu đã xin ở lại tu hành tại một ngôi chùa trên núi và theo học kinh kệ với vị trưởng lão trong chùa. Mười năm sau, cậu bé ngày nào đã lớn lên trở thành người thấu hiểu mọi phép linh thông và nhiều phép lạ. Vua Trần nghe tiếng liền sắc phong là Hòa Thượng, đặt đạo hiệu Đức Minh và mời về tu ở chùa trong kinh đô. Một thời gian sau, Ngài đã xin vua về làng dựng lên ngôi chùa mới. Xem thêm Khám phá kiến trúc đặc biệt của ngôi chùa Tháp Tường Long cao nhất thời Lý Năm 95 tuổi, Hòa Thượng Đức Minh ngồi vào một cái khám gỗ siêu thoát. Trước đó, Ngài dặn đệ tử một trăm ngày thì mở ra, nếu thấy thơm thì rút mây làm tượng thờ, còn không thì đổ ra sông Cái. Một trăm ngày sau, các đệ tử mở cửa khám, kim quang Ngài mùi thơm nức cả một vùng. Thấy vậy, dân làng và đệ tử liền xây tháp thờ phụng và tôn thờ là đức Thánh Bối. Khám phá kiến trúc chùa Đi từ chân núi Sở lên khoảng 3 km, du khách sẽ thấy công trình chùa Trăm gian nằm hướng nam nhưng có cổng mở đầu là hướng đông – nam để giáp đường đi tiện cho du khách thăm chùa. Cổng chùa công trình kiến trúc xây theo kiểu 4 trụ cột cao gồm có hai trụ lớn có một lối đi ở giữa, hai bên là hai tường nối với hai trụ nhỏ. Trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày diễn ra hội. Gần đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước. Con đường dẫn lên khuôn viên chùa Trăm Gian Đi qua cổng là tới một sân gạch với hai dãy hành lang ở hai bên dẫn du khách lên khu vực chùa chính. Đi hết con đường này, nhìn về phía bên trái là gác chuông chùa 2 tầng 8 mái, nơi treo quả chuông có niên đại từ năm Cảnh Thịnh 2 1794 cao đường kính Gác chuông này được dựng vào năm Quý Dậu 1693, là một trong số ít những gác chuông cổ có nhiều hình chạm rồng xen lẫn mây lửa cùng nhiều hoa đao uốn hắt lên. Gác chuông chùa Bậc thềm dẫn lên khu chùa chính Từ gác chuông vượt 27 bậc đá sẽ lên khu vực gian chùa chính. Du khách có thể tham quan khu vực chính điện, hoặc đi theo lối trái sân theo đường dọc hành lang để vào sân trong của chùa với các khu nhà phụ nhà khách, phòng tăng… rồi lên khu Tam bảo từ phía sau nhà hậu đường. Xem thêm Lý do chùa Dạm Bắc Ninh là điểm đến hành hương tâm linh không thể bỏ qua Gian chính chùa Trăm Gian Khu vực chính của chùa Trăm Gian gồm các tòa Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện Trong cùng là khu vực Nhà tổ, kết hợp với hai dãy hành lang dài hai bên thông với tiền đường và hậu đường tạo thành một kiến trúc thống nhất. Tòa Tiền đường gồm 7 gian, tòa Hậu đường có cùng chiều dài nhưng được phân thành 9 gian. Thượng điện chỉ gồm 3 gian nhưng có phần mái trước kéo dài và tường bên kéo thẳng sang tiền đường, tại gian giữa có một bệ bằng đất nung đỏ đặt tượng Phật Tam thế. Bệ có hình khối chữ nhật mang phong cách của bệ đá thời Trần với góc của bệ khắc hình chim thần. Tại chùa có 153 pho tượng được làm từ gỗ hoặc đắp bằng đất phủ sơn, chủ yếu là tượng Phật. Ngoài thờ Phật, chùa còn thờ Đức Thánh Bối “Đại thánh Khai sơn Bình đẳng Hành nghĩa tín Bồ tát”. Khu thờ Đức Thánh không xây riêng mà quây ván bưng thành cung thánh nằm phía bên trái thượng điện, tại đây có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông. Ngoài ra còn có pho tượng Đô đốc Đặng Tiến Đông là một quan võ ở thời Tây Sơn. Ngài có công lớn trong chiến thắng chống quân Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 và những đóng góp to lớn vào việc tu bổ chùa. Bên trong Chính điện cùa Trăm Gian Tượng Đức Thánh Bối và Phật Quan Âm Tượng Quan Âm tống tử giữa, Đô đốc Đặng Tiến Đông trái, Hà Quận công Đặng Thế Vinh phảiTượng Quan Âm tống tử giữa, Đô đốc Đặng Tiến Đông trái, Hà Quận công Đặng Thế Vinh phải Tượng chùa Trăm Gian Ngoài hệ thống tượng thờ, chùa Trăm Gian hiện nay còn lưu giữ những cổ vật, di vật mang nhiều giá trị về lịch sử. Tiểu biểu là tượng rồng đá thời Trần có thân dài mập nhưng ghép đầu rồng thời Nguyễn được đặt tại lan can thành bậc cửa chùa. Bên cạnh đó còn là những viên gạch có từ thời Mạc được xây bệ tượng Tam thế hay bộ tranh La hán và tranh Thập điện được chạm nổi có kết hợp vẽ vô cùng độc đáo không nơi nào có được… Lan can đá chạm rồng tại khu chùa chính Tượng La Hán Hành lang chùa Tòa Phương đình được xây dựng tại khoảng sân sau thượng điện trước hậu đường, là nơi du khách có thể nghỉ chân và ngắm cảnh toàn bộ không gian chùa. Tháp mộ tại khuôn viên chùa Nhà bia Lễ hội chùa Trăm Gian vào ngày nào? Là ngôi chùa mang nhiều giá trị tâm linh Phật giáo, chùa Trăm Gian là địa điểm hành hương tâm linh của rất nhiều du khách gần xa. Nếu bạn muốn có sự trải nghiệm và hòa mình vào không khí lễ hội tại chùa Trăm Gian, bạn hãy tới chùa vào thời gian mùng 4 đến mùng 6 tháng Giêng. Đây là dịp tưởng nhớ đức Thánh Bối Nguyễn Bình An. Ông là trụ trì chùa Trăm Gian vào cuối đời Trần, cũng là người đón thợ khéo về mở rộng cảnh chùa. Phần lễ nổi bật là phần rước kiệu thánh cùng rước án, giá cỗ gồm bánh chưng, bánh dày, giá văn bản cùng mâm ngũ quả và bát nhang. Phần hội có các cuộc thi nấu cỗ chay, múa rối cạn, đánh cờ người, đấu vật,…. Hội chùa Trăm Gian tấp nập du khách và người dân bản địa Vào khoảng thời gian này, chùa đón tiếp rất nhiều du khách tới du xuân thắng cảnh và chiêm ngưỡng kiến trúc cổ xưa, cũng như thành tâm lễ bái các vị chư Phật cùng lòng hướng thiện tới cầu bình an, sức khỏe. Tới chùa Trăm Gian lễ bái, mọi người nên ăn mặc lịch sự, không hở hang, Nên đi giày hoặc dép đế thấp để thuận lợi di chuyển. Ngoài ra bạn cũng nên chuẩn bị tiền lẻ và sắm sửa lễ vật thành tâm để bái yết nơi cửa chùa. Cũng như những ngôi chùa khác, con hương đệ tử đến chùa không cần sắm sửa lễ vật mâm cao cỗ đầy mà chỉ cần đơn giản nhưng thành tâm là đủ. Ta chỉ nên dâng đặt hương án Phật những đồ chay, tịnh như hương hoa, quả tươi chín, trầu cau, xôi chè hay phẩm oản. Trong những vật lễ dâng lên hương án nhà chùa, Oản Tài Lộc là Ngọc thực được nhiều người lựa chọn để thêm phần trang trọng, linh thiêng và chỉn chu. Oản Tài Lộc cô Tâm là vật lễ thiết kế độc lạ, ý nghĩa, có thể trưng lễ trong thời gian dài mà không bị hỏng, mốc. Oản lễ Phật cô Tâm thiết kế tâm linh trọn vẹn ý nghĩa Với đa dạng về mẫu mã, màu sắc, kích thước, Oản lễ Phật cô Tâm là sự lựa chọn của rất nhiều khách hàng Với sự am hiểu về những tín ngưỡng tâm linh linh thiêng, các nghệ nhân tại Oản Cô Tâm đã nghiên cứu và cải tiến thiết kế tạo nên những tác phẩm Oản Tài Lộc lễ Phật nhiều kích cỡ lựa chọn với mức giá vô cùng phải chăng. Vị trí và lộ trình di chuyển tới chùa Chùa nằm trên ngọn núi Sở thuộc địa phận thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa cách trung tâm Hà Nội khoảng 25km. Để di chuyển tới chùa, bạn có thể lựa chọn phương tiện cá nhân hoặc xe khách để di chuyển sẽ thuận tiện nhất. Để tới chùa, bạn di chuyển tới đường Nguyễn Trãi tới quận Hà Đông. Qua cầu Mai Lĩnh đi thẳng theo quốc lộ 6, đi thêm chừng 2km thì rẽ phải, men theo chân núi Sở khoảng 3km sẽ tới chùa Trăm Gian.
Đã từng gây sốc bằng câu “Bất hạnh là một tài sản”, cuốn sách “Về nhà” của Phan Việt là cuốn thứ ba trong bộ tự truyện của một người muốn nhìn lại tâm hồn đầy “thương tích” để được bình an cất bước sau đau khổ. Đã có thời gian, Phan Việt ở chùa tu tập, tịnh dưỡng và nhìn nhận lại mình. Phan Việt sinh năm 1978 là tác giả tập truyện ngắn Phù Phiếm Truyện giải Nhì cuộc Vận động sáng tác Văn học Tuổi 20; Nước Mỹ, nước Mỹ; và tiểu thuyết Tiếng Người. Chị cùng GS Ngô Bảo Châu đồng sáng lập tủ sách Cánh cửa mở rộng của NXB Trẻ. Sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, Phan Việt sang Mỹ lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành công tác xã hội tại Đại học Chicago. Hiện tại chị là phó giáo sư tại Đại học South Carolina, Hoa Kỳ. Năm 2017 chị xuất bản cuốn sách Về nhà- nằm trong bộ sách Bất hạnh là một tài sản gồm Một mình ở châu Âu, Xuyên Mỹ, Nước Mỹ, Nước Mỹ, Về nhà. Năm 2003, Phan Việt quyết định về sống ở một ngôi chùa nhằm tìm hiểu về đạo Phật sau khi trải qua một số kinh nghiệm tâm linh mà những kiến thức khoa học của chị lúc đó đã không thể giải thích, hoặc giải thích không thỏa đáng, hoặc tệ hơn, có thể tạm giải thích được nhưng không hề có tác dụng gì trong việc giúp chị ra khỏi đau khổ. Chị cũng đã từng xuống tóc gieo duyên chùa Rombodhidharma Thái Lan gần 2 tháng, cạo tóc khoảng hơn 1 tháng; sau đó thì xả y, về lại Mỹ. Toàn bộ quá trình ở chùa, tu tập và nhìn lại bản thân mình, Phan Việt đã ghi chép rất rõ ràng đầy đủ trong cuốn Về Nhà. Chị có dự định xuất bản tiếp một cuốn nữa về đạo Phật. - Codet Hanoi Khi đối mặt với câu hỏi Chỉ vì những chuyện buồn tình cảm, mà viết được những mấy cuốn sách liền, chị đã có câu trả lời chính xác như nào? - Nhà văn Phan Việt Thật sự tôi cũng không nhớ lúc được hỏi trực tiếp, tôi đã trả lời chính xác thế nào. Nhưng tôi viết bộ sách này trên tinh thần của người vẽ lại bản đồ một đoạn đường khó mà mình đi qua để người đi sau có cái tham khảo. Tôi thấy chuyện hôn nhân, ly hôn, gia đình, rất quan trọng với xã hội Việt Nam hiện đại nhưng không có ai viết về nó. Khi đã quyết định viết thì tôi thấy cần phải viết thật cụ thể, tỉ mỉ, trung thực; có những người đọc sẽ thấy cả bộ sách có ích và họ sẽ đọc kiểu tra cứu, đối chiếu tỉ mỉ để tự tìm đường cho họ; có người thì chỉ đọc lướt lướt vui vui cho biết, cũng không sao. Bộ sách này, ngay từ đầu tôi đã biết nó phải là như thế. - Vì sao chị vẫn quyết định “liên quan” tới những điều mà tưởng như chị có đủ can đảm để dứt bỏ? - Với tôi, nó không phải là một quyết định. Điều gì tôi biết là đúng, là cần phải làm, thì kể cả khó khăn, vật vã ở bên trên, tôi cũng sẽ làm. Vì không làm thì còn kinh khủng hơn. Tôi biết điều này từ lâu rồi; từ lúc nhỏ tôi đã biết những dằn vặt nội tâm khi mình cố ý không làm điều mà mình biết mình nên làm. Cho nên việc gì đến thì thường tôi biết ngay cần phải làm gì. Những thứ mè nheo, đỏng đảnh này nọ của tâm tính thường cũng quấy rối mình một chút nhưng rút cuộc cũng không cản được việc phải làm. - Trong sách có đoạn chị ngồi cafe một mình sau khi ra tòa làm chứng cho chồng 'cũ', thấy một Phan Việt buồn và cô đơn quá? - Cảm xúc của mình, đến lúc nó phải trổ ra, thì mình tránh đi đâu được? Nhìn thẳng là cách để chúng đi qua nhanh nhất. Thật ra, tôi trải nghiệm mỗi khoảnh khắc đều rất rõ nét và khoảnh khắc nào có tính rọi sáng cho đời sống thì mình nhớ; nhưng xong là xong, nó không kéo dài thành một tình trạng. Tính tôi thì bên ngoài có vẻ lờ đờ, nhưng bên trong tôi đã quyết định làm là làm, đã làm thì làm hết sức, làm tốt nhất có thể, tôi sẽ không bỏ cuộc chỉ vì khó, nhưng đã đi là đi, dù phải chặt tay mà dứt ra đi tôi cũng làm; xong là xong. Từ giã và nhảy thẳng xuống vực để nhìn thẳng vào bản chất một mình, không thể liên lụy nổi đến ai, của mỗi người; chúng ta chỉ có ảo tưởng về sự liên lụy mà thôi. Ở cái khoảnh khắc mà chị nói đó, thực ra, cảm giác chính xác của tôi là tan nát, không phải với ai mà với chính tôi. Chỗ đó là chỗ tôi từ giã những bấu víu cuối cùng rằng mình phải có một cuộc sống thế này, có hạnh phúc thế kia, mình thế nọ, mình thế kia, vân vân… Từ giã và nhảy thẳng xuống vực để nhìn thẳng vào bản chất một mình, không thể liên lụy nổi đến ai, của mỗi người; chúng ta chỉ có ảo tưởng về sự liên lụy mà thôi. Đấy, lúc đấy là lúc thấy vậy. - Cái việc yêu, sau khi ly hôn, đối với một người đàn bà, nó có gì khó và dễ? Tôi cũng cảm nhận được điều khó khăn ở chị khi phải giữ thăng bằng, hoặc cố sống như bình thường? - Cái khó nhất là niềm tin. Ly hôn xong, thường người ta không tin được khả năng nhìn người và quyết định của mình vì họ thấy lần trước mình tin chắc như thế vào người đó, vậy mà mình đã sai như thế. Rồi họ tin họ rất tệ, rất xấu xa; họ không tin rằng có thể có hạnh phúc lâu dài trong hôn nhân. Nếu bạn đã sống trong hôn nhân thì bạn sẽ hiểu rõ cái khó của việc sống cùng người khác. Còn cái dễ là bây giờ mình biết rõ mình cần gì ở một người bạn đời, mình biết rõ các thói quen của mình, mình biết cái gì là cái mình sẽ đấu tranh để giữ và cái gì là cái mình sẽ không thỏa hiệp. Ví dụ nếu không có sự tôn trọng, không thể giao tiếp thẳng thắn thì nhất định mình không đi tiếp, mình cũng dễ chấp nhận khả năng sẽ phải tự hạnh phúc một mình hơn và sẽ chủ động tìm và cân bằng hạnh phúc từ nhiều thứ chứ không dồn nó vào một người. Tất cả vẫn loay hoay trong thân và tâm này. Tất cả vẫn loay hoay trong thế giới tạo lập bởi ngôn từ, ý niệm. Người thì chối bỏ bên ngoài để tù đọng, đắm chìm bên trong. Người thì chối bỏ bên trong để điên đảo theo bên ngoài. Vào lúc này, tôi lờ mờ cảm giác rằng về chùa tìm hiểu đạo Phật có thể đưa tôi ra khỏi sự loay hoay. - Phan Việt - Trong “Về nhà” có đoạn miêu tả chị “đấu tranh” với một con ma. Con ma phải chăng là một biểu tượng thử thách chị? - Với tôi lúc đó, nó là một thử thách. Nó đồng thời là một cơ hội để tôi đối diện nhiều thứ, nó mở ra rất nhiều cho tôi. Câu chuyện con ma này, kết luận thế nào là của từng bạn đọc. - Chị có nghĩ rằng, quãng thời gian ở chùa cũng đã chữa lành “vết thương” cho chị không? - Có, điều đó là có! Phan Việt ở chùa Rombodhidharma Thái Lan - Nhiều bạn đọc vẫn rất thắc mắc việc chị cắt tóc gieo duyên, và nghĩ rằng chị đã là một sư cô? - À không, cắt tóc gieo duyên tức là mình cắt tóc một thời gian ngắn, có thể một ngày, hai ngày, một vài tháng, và sống đời tu hành trong khoảng thời gian đó. Một số chùa ở Việt Nam cũng có làm điều này. Ở Thái Lan thì chuyện này rất phổ biến trong đời sống người dân. Tôi vốn sang chùa Rombodhidharma của Luang Por Phosrisuryia Khemarato với mục đích nghiên cứu về ứng dụng đạo Phật vào trị liệu các rối nhiễu tâm thần. Lần đầu tôi đến chùa là cuối tháng 6-2016 và chỉ ở lại một tuần. Lúc đó, tôi chỉ tình cờ sang chùa theo một người bạn và đinh ninh rằng chùa này dạy ngồi thiền. Nhưng sang đến nơi thì thấy ở đây không dạy ngồi thiền, cũng không tụng kinh, không trì chú, không niệm Phật, không có thời khóa bắt buộc nào. Thời khóa – nếu có thể gọi như thế – chỉ là một buổi pháp duy nhất mỗi ngày vào lúc 6 giờ sáng. Ai muốn dự sẽ tới chánh điện – chỉ là một cái lán lớn lợp tranh – nghe Luang Por giảng, có thể 15 phút, có thể 45 phút. Sau đó ăn sáng. Thời gian còn lại trong ngày, mọi việc tự vận hành. Không có ai phân công, không có ai quản lý, không ai giám sát, không có bất kỳ một hình thức tổ chức nào, vậy mà mọi việc tự động tổ chức. Người tình nguyện làm việc dưới bếp, người làm việc trong vườn, người quét đường, sửa cốc liêu, vân vân… Khỏe thì làm, mệt thì nghỉ. Mấy trăm chư tăng ở trong các cốc xây đơn giản, có khi chỉ là cái lán che bốn phía, mỗi ngày mang bình bát lấy cơm một lần buổi sáng, còn lại cứ thế “tu”. Giải thích cụ thể pháp tu của tăng ni ở chùa không phải là mục đích bài viết của tôi nên tôi xin phép bỏ qua. Tôi kể tiếp chuyện xuất gia gieo duyên. Lúc đó, tôi ở chùa Rombodhidharma gần 2 tháng, cạo tóc khoảng hơn 1 tháng; sau đó thì xả y, về lại Mỹ. Thật ra thì bây giờ tôi sống không khác nhiều lắm so với hồi ở chùa. - Cảm giác sau khi xuống tóc của chị thế nào? Ngay giây phút đó, những gồng gánh và cả quả núi lớn từ trên vai tôi được vứt ùm xuống. Nhưng cái xảy ra đằng sau việc xuất gia gieo duyên mới là cái đáng nói. Chính sau khi có thể chấp nhận và bỏ xuống những ý niệm về bản thân và việc phải làm, thì tôi lại có một sự rõ ràng và tự do tôi chưa từng biết đến, để có thể làm được rất nhiều điều mà trước đây tôi đắn đo. Sống để làm gì, sống thế nào trở nên rõ ràng hơn hết. Thật ra thì bây giờ tôi sống không khác nhiều lắm so với hồi ở chùa. Chính sau khi có thể chấp nhận và bỏ xuống những ý niệm về bản thân và việc phải làm, thì tôi lại có một sự rõ ràng và tự do tôi chưa từng biết đến, để có thể làm được rất nhiều điều mà trước đây tôi đắn đo. Sống để làm gì, sống thế nào trở nên rõ ràng hơn hết. - Chị có thể chia sẻ một lời khuyên cho ai đó đang đi tìm hạnh phúc? - Nếu nói ngắn gọn kiểu công thức chung thì tôi sẽ nói là Dừng tìm - bạn sẽ có hạnh phúc! Ý tôi nói đến dừng bên trong – dừng các tham muốn, tính toán, tưởng tượng, ảo tưởng, dính mắc. Nhưng câu này chỉ có tác dụng thực sự cho người đã ít nhiều chạy mỏi; với người chưa sẵn sàng, nó sẽ là sáo rỗng. Riêng với người đã từng đổ vỡ hôn nhân, tôi nghĩ một điều quan trọng là phải có thời gian dừng lại để nhìn cho rõ về bản thân và hôn nhân để dọn dẹp các phiền não và ảo tưởng đã. Dọn dẹp được, mình sẽ có thể tự làm cho mình hạnh phúc trước; mình sống đàng hoàng và tự đầy đủ với chính mình, với đời sống bên ngoài. Mình tạo không gian hạnh phúc cho người khác đến, và nếu họ không đến cũng không sao. Còn nếu vội vàng tìm kiếm một sự khỏa lấp, tôi nghĩ khả năng tiếp tục không hạnh phúc là rất cao. - Kế hoạch sắp tới của chị? Trong 3-4 năm tới, tôi sẽ không viết văn hư cấu nữa. Hiện tôi đang viết một cuốn sách về giáo dục Mỹ, một cuốn khác về đạo Phật dựa trên những tư liệu mà tôi chưa thể đưa vào cuốn Về Nhà. Từ lâu, tôi định mở một tổ chức phi chính phủ để làm việc ở các mảng giáo dục, tâm lý, từ thiện; giờ tôi đang chuẩn bị cho việc này. Nhưng kế hoạch là thế, và tôi cứ làm, nhưng không cố định vào chúng. Tôi đã viết 8 cuốn sách và làm các dự án, tôi tự thấy khi điều kiện chưa đủ, thì cố nữa, cố mãi, làm hết sức, mọi sự vẫn không toàn vẹn và mình thì phiền não. - Chân thành cảm ơn Phan Việt. Cảm ơn chị. Phan Việt trong lễ ra mắt sách Chương 20 Đời rút cuộc là để làm gì? Trích từ cuốn Về Nhà, 2017, do Nhã Nam xuất bản “Bây giờ phải hỏi một số câu hỏi nghiêm túc đây. Vì sao cần học Phật? Đạo Phật rút cục là cái gì? Giải thoát là gì? Giải thoát khỏi cái gì? Giải thoát xong thì đi đâu? Vì sao cần giải thoát? Tôi phải hỏi những câu hỏi này để chắc chắn việc mình sẽ trở lại chùa – bởi vì tôi sẽ phải giải thích với bố mẹ và với chính mình tại sao tôi về Việt Nam nhưng không ở nhà mà lại vào chùa sống. Tôi không muốn quyết định về chùa là một quyết định do sợ hãi đưa đẩy – nhất là do sợ một thứ vô hình như “sợ ma”. Tôi cũng không muốn quyết định đó do sự tò mò chuyện ông Hoàng bà Chúa, ngài nọ ngài kia nhập vào người này người nọ. Tôi lại càng không muốn sự tìm hiểu này là do học nhiều, “rửng mỡ”, “phức tạp”, loạn đầu, hoặc thất tình, ly hôn, bị bỏ bùa mê thuốc lú – như người ta có thể nói. Tức là nếu tôi không “gặp ma” thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không? Nếu cuộc đời tôi trôi chảy, suôn sẻ thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không? Còn nữa nếu tôi không phải là “đàn bà” và ở Việt Nam thì tôi có muốn tìm hiểu đạo Phật không, bởi vì đa phần người đến chùa đều là phụ nữ. Chưa hết. Giờ tôi đã biết đến đạo Phật thì rút cục là tìm cái gì? Tìm một lực lượng để bảo vệ tôi? Tìm một hệ thống luân lý, đạo đức mới mà rút cục cũng chỉ là một thứ hệ thống tham chiếu? Tìm một nghi lễ? Tìm đại câu trả lời cho một câu hỏi quá khó mà tôi không có khả năng trả lời? Hay tìm cái gì? Tôi biết chắc một số người bạn của tôi – đa phần là trí thức, doanh nhân, chính trị gia thành đạt – sẽ không bao giờ thấy có nhu cầu tìm hiểu đạo Phật hay bất cứ “đạo” nào theo cách trải nghiệm chúng, dù rằng họ có thể đọc rất nhiều sách về tôn giáo. Họ chắc sẽ tặc lưỡi ngậm ngùi hoặc cười mỉm khi biết tôi vào chùa sống. Thế thì những người bạn vô cùng tài giỏi, thông minh, thành công đó của tôi và tôi có gì khác nhau, khiến chúng tôi có quyết định khác nhau với sự tìm hiểu này? Tôi có lúc nào hoài nghi những gì đã thấy ở chùa không? Có chứ. Ngay từ đầu, lúc nào tôi cũng nghi. Từng giây từng phút đều nghi. Tôi nghi tất cả những chuyện Phật, Bồ Tát, ông Hoàng, Mẫu, ma quỷ, nhập xuất. Tôi nghi cả thầy trụ trì, các sư ông và sư chú – không phải nghi họ lừa tôi mà nghi rằng chính họ có thể cũng đang đi theo những ảo tưởng mà không biết. Sự thật là thời gian đầu đến chùa, đã có lúc tôi nghĩ sẽ bỏ đi không bao giờ quay lại. Nhưng rút cục, tôi vẫn quay lại. Cái làm tôi tiếp tục tìm hiểu đạo Phật chính là ở chỗ tôi thấy bất chấp những chuyện tôi chưa thể lý giải về Phật, Bồ Tát, ông Hoàng, mẫu, ma, nhập xuất, thì việc đọc và tìm hiểu kinh điển khiến tôi thấy mình ngày càng an. Phiền não của tôi bớt đi một cách rõ ràng. Đau khổ bớt đi rõ ràng, không phải bằng sự ru ngủ bản thân và tặc lưỡi mà bằng chính sức công phá sáng sủa của kinh sách tôi đọc đến thời điểm này. Ngay kể cả khi tôi chưa hiểu hoàn toàn, thì tôi cũng nhận thấy có sự khác biệt lớn giữa đạo Phật – với tư cách là một hệ thống những biển chỉ đường để con người thấy sự thật về thế giới và chính mình – với đạo Phật như một hệ thống tôn giáo, tín điều, cùng một rừng nghi lễ mà rất nhiều chùa ở Việt Nam đang tuân thủ. Đạo Phật với nghĩa chân pháp, chứ không phải một tôn giáo. Cái tôi tìm là cái đầu, chứ không phải cái thứ hai. Nhưng quay lại với những câu hỏi trên. Để trả lời, tôi thử hỏi tại sao Thái tử Tất Đạt Đa bỏ kinh thành ra đi cầu đạo, rồi đắc đạo thành Phật Thích Ca Mâu Ni. Tại sao một người có tất cả lại từ bỏ tất cả để ra đi tìm đạo giải thoát? Bản thân tăng đoàn đầu tiên của Phật cũng đa phần là những người thuộc tầng lớp cao nhất trong xã hội Ấn Độ bấy giờ là tầng lớp bà-la-môn và quý tộc. Những người trong hoàng thân của thái tử Tất Đạt Đa như ngài A-Nan, A-Na-Luật, La Hầu La đều xuất gia theo Phật. Ở Việt Nam sau này, nhiều vua Lý là những Phật tử thuần thành. Vua Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông đều là những thiền sư lỗi lạc. Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở chùa lúc nhỏ. Một trong những văn hào Việt Nam tôi yêu mến nhất - Nguyễn Trãi - là người thấm nhuần đạo Phật. Tất cả những người tôi kính trọng trên thế giới đều có Đạo – theo nghĩa sự sống của họ có hương vị của sự giải thoát, dù Đạo mà họ thuận theo có thể có tên gọi khác nhau Đạo Phật, đạo Lão, đạo Thiên Chúa, hay cái gì khác. Khi ở chùa lần trước, tôi từng nói với thầy trụ trì rằng đã có tất cả như thái tử Tất Đạt Đa thì bỏ đi là quá dễ. Nếu tôi đã có x, y, z… tôi cũng có thể bỏ đi được bởi vì lúc đó chúng không còn quý với tôi nữa. Như khi tôi chưa có bằng tiến sĩ, tôi thấy việc có bằng tiến sĩ là một cái đích đáng mơ ước; nhưng khi có rồi tôi thấy nó bình thường, tôi không quan trọng việc người ta có biết tôi là tiến sĩ, thậm chí thấy rằng không có bằng tiến sĩ cũng chẳng sao. Năm 2010, tôi phỏng vấn anh Ngô Bảo Châu rằng sau khi được hai huy chương vàng Olympic toán quốc tế lúc mới 17, 18 tuổi, anh có cảm thấy áp lực phải giàu có, thành công vượt bậc khi lớn lên hay không, anh Châu cũng nói rằng anh không thấy có áp lực này bởi vì một khi được giải, anh thấy nó cũng bình thường, không thấy nó có gì đặc biệt, không thấy mình có gì đặc biệt nên không thấy mình phải làm gì đặc biệt với cuộc đời mình cả. Thế thì Thái tử Tất Đạt Đa có thể cũng đã thấy sự giàu có của mình là bình thường. Việc được ăn ngon, mặc đẹp, có cung nữ hầu hạ, muốn gì được nấy trở thành một thứ bình thường, thậm chí tầm thường. Cho nên Thái tử muốn một thứ lớn hơn mà người ta có thể lãng mạn hóa mà gọi là cầu đạo giải thoát chăng? Song nó vẫn chỉ là một cái muốn khác, như người nghèo thì muốn có xe Dream, người hơi giàu muốn có Toyota, người rất giàu thì muốn Merdeces, người cực giàu thì muốn có máy bay riêng, mà người đã giàu không đếm được thì quay lại đi bộ hoặc xe đạp. Dù thế nào cũng vẫn là muốn. Thế thì giải thoát đi đâu? Cũng chỉ là thỏa mãn ở tầng kinh nghiệm khác nhau, cái cao cái thấp. Không lúc nào thoát khỏi thân và tâm này. Có cái hữu thể này tồn tại thì phải chăng tất cả chỉ là các định dạng khác nhau của kinh nghiệm hữu thể? Lúc đó, thầy trụ trì đã nói với tôi rằng Bồ Tát Hộ Minh, tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni từ cung trời Đâu Suất sinh xuống làm thái tử Tất Đạt Đa là do phước báo và nguyện lực; chứ không phải tình cờ làm Thái tử rồi chán ngán mà bỏ đi. Tức là dù Đức Phật Thích Ca có sinh ra trong một gia đình nghèo khó, bần cùng thì rồi ngài cũng vẫn có thôi thúc tìm sự giải thoát và sẽ từ bỏ gia đình để ra đi. Có điều, với tất cả những công đức đã tích tụ từ các kiếp trước, Ngài phải sinh làm Thái tử. Về chuyện phước báo của các kiếp trước thì tôi đã gặp đủ các hạng người trên đời để thấy một chuyện thế này. Có người sinh ra đã thấy làm việc lớn là chuyện đương nhiên – bất chấp xuất thân của họ cao sang hay nghèo hèn. Họ có thể chịu khó, chịu khổ lúc bé hay lúc trẻ mà không bận lòng vì họ luôn biết cái “lớn” của mình, họ thấy thế giới không đáng sợ, người giàu, người có bằng cấp, địa vị không có gì ghê gớm. Còn có người thì chỉ có thể thấy cái trước mắt, tính toán chuyện vụn vặt, vui với thành công nhỏ; kính ngưỡng sự giàu có, danh vọng, thành công, chức tước như những gì xa vời. Họ không thể nào tưởng tượng việc mình là chủ các cuộc chơi lớn mang tầm quốc gia, quốc tế; là người lãnh đạo, mở đường, tạo lập các truyền thống mới. Nghĩa là cái định dạng lúc khởi đầu, tầm cỡ của một người – mà thầy gọi là “nghiệp lực” ở các chúng sinh phàm và “nguyện lực” ở các bậc tái sinh – có thể là cái có thật. Nhưng hãy quay lại chuyện giải thoát và học Phật của tôi. Tôi còn chưa thật rõ tôi có thể tìm gì ở chùa, tôi cũng còn chưa khẳng định được cốt tủy của đạo Phật là gì nhưng cái thôi thúc tôi đến chùa tìm hiểu không phải do sợ, do khổ, do thất bại. Nghĩ cho kỹ, cái thôi thúc này đã có từ nhỏ, dù tồn tại dưới dạng khác. Tôi đã đọc sách, đã luôn thích học, đã không ngừng tìm hiểu, đã một mình rời gia đình ở Bắc Giang ra Hà Nội học cấp ba, rồi lại một mình rời Hà Nội sang Mỹ học, và giờ quay lại Việt Nam cũng vì cái thôi thúc này. Gọi là cầu đạo giải thoát thì quá to tát; tôi thực tình thấy đời sống này dù khó khăn nhưng ngụp lặn trong những hỉ nộ ái ố của nó cũng đáng lắm. Có điều tôi không muốn ngụp lặn như một người mù quờ quạng. Tôi không muốn đi theo một cuộc chơi tôi không biết luật. Tôi muốn biết sự thật về thế giới và cuộc sống. Có sự thật thì có tự do. Có tự do thì dễ có hạnh phúc hơn. Tôi từng cho rằng khoa học sẽ mang lại sự thật và tự do đó; và tôi từng nhầm rằng học lên cao – mà bằng tiến sĩ là cao nhất về mặt học vị - thì tôi có thể tìm thấy sự thật và tự do đó. Nhưng hình như không phải. Dù tôi có một hay 10 bằng tiến sĩ thì với tình trạng hiện tại, tôi vẫn không có tự do với những trạng thái tình cảm đơn giản nhất của mình như yêu, ghét, giận, sợ. Đa phần những người có bằng tiến sĩ mà tôi từng gặp, dù ở Việt Nam hay Mỹ, cũng thế. Đại gia mà tôi biết cũng thế. Bộ trưởng, thứ trưởng, đại sứ, thống đốc bang tôi biết cũng thế. Mỹ nhân, kiều nữ, danh ca, danh họa, đại trí thức cũng thế. Tất cả vẫn loay hoay trong thân và tâm này. Tất cả vẫn loay hoay trong thế giới tạo lập bởi ngôn từ, ý niệm. Người thì chối bỏ bên ngoài để tù đọng, đắm chìm bên trong. Người thì chối bỏ bên trong để điên đảo theo bên ngoài. Vào lúc này, tôi lờ mờ cảm giác rằng về chùa tìm hiểu đạo Phật có thể đưa tôi ra khỏi sự loay hoay. Đằng sau rừng nghi lễ và tín điều đang được thực hành ở các chùa chiền Việt Nam có thể có vàng ròng. Có sự thật. Có tự do và cách để đi đến tự do. Có Phật thực sự - như một người giải thoát, ngay tại đây, chứ không phải một đấng ban phát. Tôi có thể sai nhưng tôi chấp nhận khả năng sai còn hơn ngồi im không đi tìm. Đời thì rút cuộc để làm gì nếu không để kinh nghiệm, trực nhận nó?
xin vào chùa ở một thời gian